Gặp mặt đồng hương Huế tại TPHCM
Ngày 3/3, tại TP. Hồ Chí Minh, gần 500 người Huế đang sống tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam có buổi gặp...
Huế là nơi còn bảo lưu nhiều dạng hình cổng ngõ mang đặc trưng riêng, trong đó có cổng thành, cổng cung điện, cổng lăng tẩm, phủ đệ, đình chùa, công trình công cộng… và một số cổng ngõ mới xuất hiện gần đây như cổng làng văn hoá, cổng tổ dân phố văn hoá… Tuỳ thuộc vào công năng của mỗi công trình mà cổng ngõ được thiết kế, xây dựng một cách phù hợp cả về kiến trúc, thẩm mỹ lẫn quy mô công trình.
Kinh thành Huế được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX (dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng), toạ lạc ở phía Bắc sông Hương, mặt quay về hướng Nam. Kinh thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban.
Sau khi lên ngôi hoàng đế vào năm 1802, vua Gia Long bắt tay vào quá trình xây dựng đất nước. Và một việc vô cùng quan trọng đối với mỗi triều đại là xây dựng kinh đô, nơi bảo vệ quyền lực của vương Triều. Từ năm 1803, vua Gia Long đã bắt đầu quá trình quy hoạch, thiết kế kinh thành Huế. Đến 1805 thì bắt đầu công cuộc xây dựng toàn bộ kinh thành.
Về tổng thể kinh thành Huế gồm có 3 vòng thành. Mỗi vòng thành đều có chức năng riêng, tất cả đều hướng về phía Nam (lệch Đông)
Tên gọi của 3 vòng thành ấy theo thứ tự ngoài lớn vào phía trong nhỏ như bên dưới:
Kinh thành Huế với 13 cửa ra vào đều có tên chữ Hán khắc ở mặt trước và sau cửa. Đây là tên chính thức của Nhà Nguyễn đặt. Còn người dân thì vẫn hay gọi tên theo thói quen liên hệ tới 1 cái gì đó cho dễ nhớ
Đối với cửa đường bộ, 2 cửa Chánh Tây và Trấn Bình Môn là tên gọi chính thức do triều Nguyễn đặt, còn 9 cửa còn lại có tên gọi theo dân gian.
Mặt thành hướng Nam gồm 4 cửa: trong đó 2 cửa sát kỳ đài gọi là NAM VƯƠNG MÔN, 2 cửa này chỉ dành cho hoàng gia đi. Tên dân gian là Cửa Ngăn và Cửa Sập
Còn gọi là Thể Nhân Môn, dành cho vua và hoàng gia ra vào, mỗi lần vua và hoàng gia ra vào kinh thành thì triều đình cho lính ra ngăn con đường trước mặt kinh thành, không cho ai đi qua lại. Nên gọi là CỬA NGĂN.
Thể Nhân Môn có tên thường gọi là cửa Ngăn, nằm phía Nam, bên trái Kỳ Đài của Kinh Thành, lưu thông một chiều từ đường 23/8 ra đường Lê Duẩn. Phần vòm cửa được xây dựng năm 1809 dưới thời vua Gia Long, vọng lâu bên trên được xây dựng vào năm 1829 dưới thời vua Minh Mạng. Lúc đầu có tên là Thể Nguyên, sau khi xây vọng lâu thì cải thành Thể Nhân. Nhân dân quen gọi là cửa Ngăn Dưới để phân biệt với cửa thành Quảng Đức là cửa Ngăn Trên.
2. Cửa Sập
Còn gọi là cửa Quảng Đức, cửa này bị sập năm 1953 do lụt. Trước 1945, cửa này cũng dành cho vua và hoàng gia đi nên còn cửa Ngăn ( cửa ngăn Trên, còn cửa Ngăn hiện này thì gọi là cửa Ngăn dưới). Năm 1998, cửa Sập được trùng tu.
Hiện tại thì đa phần người dân dùng từ cửa Quảng Đức, tên cửa Sập chỉ vài người lớn tuổi dùng, đặc biệt là người ở gần khu vực cửa Sập.
Phía bên phải di tích Kỳ Đài là Cửa Quảng Đức nằm ở mặt Nam của Kinh Thành, chỉ lưu thông một chiều từ hướng đường Lê Duẩn vào đường 23/8. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1829, thời Minh Mạng. Trận lụt năm 1953, đã quét sập đổ hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là cửa Sập. Trong chiến sự năm 1968, cửa bị phá hoại nặng nề, và cấm không cho ra vào. Năm 1998, cửa được phục chế lại.
9 cửa còn lại (mỗi phía thành có 2 cửa) với tên chữ ứng với vị trí của nó. Và đồng thời cũng có tên gọi dân gian
Ngoài Cửa Ngăn và Cửa Sập cho vua và hoàng gia thì còn thêm 2 cửa:
Còn gọi là cửa Chánh Nam – Đường Nguyễn Trãi, thời vua Gia Long có 1 kho chứa binh khí, có thợ làm đồ dùng cho nhà vua gọi là Đồ Gia, dịch sang tiếng Việt là Nhà Đồ. Cửa Chánh Nam nằm gần Nhà Đồ nên dân gian gọi là CỬA NHÀ ĐỒ. Tên gọi này đến nay vẫn còn dùng.
Bên trái cửa Quảng Đức là cửa Chánh Nam Môn nằm ở phía Nam Kinh Thành, cuối đường Nguyễn Trãi, dân gian vẫn gọi là cửa Nhà Đồ. Cửa này nay chỉ cho phép lưu thông một chiều từ đường Nguyễn Trãi ra đường Lê Duẩn.
Phần cửa vòm được xây dựng năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu bên trên được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 10, tức năm 1829. Lúc đầu, phía bên ngoài cửa có cục Tượng Ty, hay còn gọi là Đồ Gia, là kho chứa vật dụng, binh khí, dịch nôm na hai chữ Đồ Gia là Nhà Đồ, vì thế cửa Chánh Nam còn có tên gọi là cửa Nhà Đồ. Trận lũ năm 1953, đã làm sập phần vòm và vọng lâu bên trên cửa Nhà Đồ.
Còn gọi là cửa Đông Nam – Đường Đinh Tiên Hoàng, cửa này nằm gần viện Thượng Tứ (Trường Tiểu học TRẦN QUỐC TOẢN bây giờ) chuyên môn trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua.
Bên phải cửa Ngăn là cửa Cửa Thượng Tứ có tên chữ là Đông Nam Môn, nằm ở góc Đông Nam Kinh Thành, nay chỉ lưu thông một chiều từ đường Trần Hưng Đạo đi vào đường Đinh Tiên Hoàng, bên ngoài là phường Phú Hoà, bên trong là phường Thuận Thành, thành phố Huế.
Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809 dưới thời vua Gia Long, vọng lầu được xây dựng vào năm 1829, thời vua Minh Mạng. Sở dĩ cửa có tên gọi là Thượng Tứ ngày xưa, ở gần bên trong cửa thành này (khoảng vị trí trường Trần Quốc Toản hiện nay), triều đình đã thiết lập một cơ quan tên là Viện Thượng Tứ, chuyên trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua.
Còn gọi là cửa Chánh Bắc – Đường Đinh Tiên Hoàng nối dài, vì tọa lạc ở mặt sau của Kinh thành Huế. Chánh Bắc Môn tục gọi là Cửa Hậu, vì nó tọa lạc tại mặt sau của Kinh Thành. Cửa Hậu nằm cuối đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn ra đường Tăng Bạt Hổ. Phần cửa vòm được xây dựng năm 1809 dưới thời Gia Long. Vọng lầu được xây dựng vào năm 1831 dưới thời vua Minh Mạng.
Sau khi thực dân Pháp chiếm kinh thành Huế (1885), cửa Chánh Bắc (Mang Cá lớn) và cửa Trài (Mang Cá nhỏ) bị đóng kín để lập đồn Mang Cá. Do hậu quả của chiến tranh và thiên tai cửa đã bị hư hại, nên suốt 116 năm hai cửa này vẫn chưa được khai thông. Ngày 21/5/2004. sau 4 tháng thi công, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã chính thức làm lễ khánh thành, khai thông cửa Chánh Bắc trở lại.
Còn gọi là cửa Tây Bắc – Đường Nguyễn Trãi vì mặt trước có làng An Hòa và chợ An Hòa. Cửa An Hoà có tên khác là Tây Bắc Môn, cửa nằm ở góc Tây Bắc của Kinh Thành, nối từ đường Nguyễn Trãi ra thẳng đường Tăng Bạt Hổ. Phần vòm cửa được xây dựng năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng vào năm 1831, thời vua Minh Mạng. Người dân Huế gọi là cửa An Hòa vì trước mặt cửa thành này là làng An Hòa và chợ An Hòa.
Còn gọi là cửa Chánh Đông – Đường Mai Thúc Loan, cửa này liên quan đến chợ Đông Ba. Thời xưa tại đây có chợ tên là Quy Giả, sau này đổi tên thành chợ Đông Hoa
Về sau vì phạm úy chữ HOA nên tên chợ được đổi thành Chợ Đông Gia, nhưng vì chữ GIA khó đọc nên người dân đọc thành Đông Ba. Sau này chợ được dời ra vị trí hiện tại như bây giờ.
Cửa Đông Ba có tên chữ là Chánh Đông Môn, tức cửa nằm ở phía Đông Kinh Thành, cuối đường Mai Thúc Loan, thành phố Huế. Địa danh này phát xuất từ tên của pháo đài Đông Hoa có từ thời Gia Long. Đến đầu thời Thiệu Trị, vì triều đình kiêng dùng tên húy của mẹ nhà vua là bà Hồ Thị Hoa, cho nên đổi tên thành Đông Gia. Nhưng nhân dân quen gọi là Đông Ba. Phần cửa vòm được xây dựng từ năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu được xây dựng năm 1824 dưới thời Minh Mạng. Ngày 5/7/1885, nơi đây đã diễn ra trận giao tranh ác liệt giữa quân Pháp và quân triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Trong chiến sự năm 1968, bom đạn đã đánh sập phần vọng lầu làm hư hại nặng nề cửa chính Đông Ba.
Còn gọi là cửa Đông Bắc – Đường Kẻ Trài, phía trước cửa này bên kia sông đào Đông Ba có xóm mang tên Kẻ Trài, hiện cửa này dẫn vào khu quân đội
Cửa này thì nhiều người ở Huế không biết, đặc biệt là người trẻ. Lý do chính là không mấy người được đi qua cổng này.
Đông Bắc Môn có tên gọi dân gian là cửa Kẻ Trài, nằm ở góc Đông Bắc của Kinh Thành, bên bờ Tây của sông Đông Ba. Phần vòm cửa được xây dựng vào năm 1809, dưới thời Gia Long, vọng lầu được xây dựng vào năm 1824, dưới thời vua Minh Mạng. Ngày xưa, Kẻ Trài là tên một xóm ở phía trước cửa thành, nơi đây có chợ Mới, có Hàng Bè, có phố Đông Hội, thương nhân Bắc kỳ đưa hàng hoá vào buôn bán, họ làm lều quán lúp súp, thành những dãy nhà trài hai bên bờ sông, dân bản địa thường gọi là Kẻ Trài, từ đó cửa Đông Bắc cũng có tên là Kẻ Trài.
Nằm ở Đường Thái Phiên: Vẫn gọi theo tên đúng của nó là Cửa Chánh Tây. Cửa Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh Thành, trên đường Thái Phiên, TP Huế. Phần cửa vòm được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lầu bên trên được xây dựng năm 1829, dưới thời vua Minh Mạng.Trong chiến sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác liệt, cửa bị tàn phá hoàn toàn phần vọng lầu phía trên, sau đó bị cấm đi lại. Nay cửa đã được tu sửa.
Còn gọi là cửa Tây Nam – Đường Yết Kêu, vì nằm bên phải (hữu) của Kinh thành. Cửa Hữu, có tên chữ là Tây Nam Môn, nằm ở phía Tây Nam của Kinh Thành, ở đầu đường Yết Kiêu. Phần cửa vòm, được xây dựng vào năm 1809, dưới thời vua Gia Long, vọng lâu được xây dựng năm 1829 thời Minh Mạng. Đêm mồng 5/7/1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi Kinh Thành, để ban hịch Cần Vương. Chiến sự năm 1968, đã làm sập vọng lâu và vòm cửa.
Đây là cửa từ Kinh Thành ra TRẤN BÌNH ĐÀI, một thành phụ nằm ở gốc Đông Bắc Kinh Thành. Người dân hay gọi là Mang Cá nhỏ. Để tới được cửa này thì đi vào đường Mang Cá Nhỏ, chạy hết đường sau đó chạy theo đường mòn bên tay trái là thấy
Trấn Bình môn thuộc vòng tường thành của Kinh thành không phải là cửa thông ra ngoài thành mà là thông đến Trấn Bình đài là pháo đài phòng thủ của Kinh thành. Cửa này đươc trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của Kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Nếu nói đúng (xem TRẤN BÌNH ĐÀI thuộc kinh thành Huế) thì để ra khỏi phạm vi kinh thành từ Trấn Bình Môn thì phải đi qua thêm Trường Định Môn – là một trong hai cửa của TRẤN BÌNH ĐÀI – nối TRẤN BÌNH ĐÀI với bên ngoài. Nghĩa là từ Kinh Thành đi qua TRẤN BÌNH MÔN vào TRẤN BÌNH ĐÀI sau đó đi qua TRƯỜNG ĐỊNH MÔN để ra bên ngoài
Ngoài ra để ra vào kinh thành Huế thì còn 2 cửa ở hai đầu sông Ngự Hà ở phía Đông và Tây
Cây cầu cổ đầu tiên trên sông Ngự Hà là cầu Lương Y, còn gọi là cống Đông Thành Thủy Quan. Cầu nằm trên đường Xuân 68, trục đường chạy dọc theo mặt Đông của Kinh thành Huế.
Còn gọi là cống Thủy Quan, Tây thành Thủy Quan là cửa đường thủy thông giữa sông Ngự Hà trong kinh thành với sông đào Kẻ Vạn khu vực Kim Long. Phía bên ngoài thành là cầu Thủy Quan nằm trên đường Lê Duẫn (QL1A đi qua Thành phố).
Tuy nhiên hiện tại thì tại 2 đầu cửa này đều có đập chắn ngang, nên thuyền qua lại cũng khó khăn
Nguồn bài viết và hình ảnh được sưu tầm trên Internet
Ngày 3/3, tại TP. Hồ Chí Minh, gần 500 người Huế đang sống tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam có buổi gặp...
Diễn ra trong hai ngày 6 và 7/4, hội trại truyền thống đồng hương Huế tại TP. Hồ Chí Minh lần thứ 35 đã thu hút...
Sự kiện gặp mặt mừng xuân 2024 của Hội đồng hương TT Huế tại TPHCM sẽ diễn ra ngày 3/3 tại Trung tâm Hội nghị...